Nền kinh tế trong nước của Việt Nam đã và đang thiết lập để tăng trưởng trở lại, trong khi tình hình thế giới còn nhiều bất ổn và chưa phục hồi.
Đã hơn 2 tháng kể từ khi trường hợp lây nhiễm Coronavirus mới nhất cho cộng đồng được phát hiện ở Việt Nam, một quốc gia vốn được ca ngợi là một trong số 11 nước có nền kinh tế mới nổi vượt trội, tiếp tục được đánh giá cao khi là một trong những nước đầu tiên mở cửa lại hoàn toàn nền kinh tế trong nước.
Mặc dù vẫn thường trực mối đe dọa tái phát bệnh dịch, chính phủ Việt Nam giờ đây đang chuyển hướng sự chú ý đến việc “sửa chữa” nền kinh tế đã và đang bị thiệt hại. Và kết quả là kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi tốt hơn nhiều quốc gia khác, nhưng điều đó không có nghĩa là đã hoàn toàn an toàn. Tăng trưởng GDP quý 1 dù vẫn tăng trưởng dương 3.8% nhưng đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2010. Xuất khẩu và du lịch bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tiêu dùng trong nước tiếp tục được trông đợi là cầu nối hàn gắn nền kinh tế.
NTD chủ yếu chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ thiết yếu trong những tháng còn lại của năm 2020
Thu nhập khả dụng của người dân và tầng lớp trung lưu có xu hướng tăng nhanh góp phần khẳng định động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam là nhờ chi tiêu trong nước, chiếm 68% GDP. Mặc dù chịu áp lực từ việc Cầu giảm – 2/3 người dân Việt Nam tham gia khảo sát trong tháng 4/2020 nói rằng thu nhập của họ bị ảnh hưởng lớn bởi Covid-19, và 55% cho biết họ đã phải cắt giảm chi tiêu, nhưng “động lực chi tiêu” vẫn còn duy trì.
Việc giãn cách xã hội, đình chỉ các hoạt động không quan trọng của Việt Nam chỉ kéo dài 22 ngày, ngắn hơn đáng kể so với nhiều quốc gia khác, giúp giảm bớt một số áp lực giảm đối với tiêu dùng. Gói kích thích trị giá 27 nghìn tỷ đồng được phát hành vào tháng 3, hướng đến các hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ cũng là một biện pháp giúp kích Cầu NTD.
Hiện tại, cần thiết phải xem xét tiêu dùng trong nước có thể giữ cho nền kinh tế tăng trưởng bao lâu, trong trường hợp các lĩnh vực quan trọng khác của nền kinh tế không tăng trưởng trở lại được. Tuy vậy, từ một số đặc điểm chi tiêu của người dân Việt Nam vẫn mang lại những lý do để lạc quan. Đầu tiên có thể thấy Chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ thiết yếu chiếm tới 42% GDP cả nước, trong khi Chi tiêu tùy ý là 26% GDP. Việc cắt giảm chi tiêu chủ yếu chủ yếu đến từ ngân sách cho Chi tiêu tùy ý (Phụ lục 1), do vậy mà phần chi tiêu quan trọng đóng góp lớn vào kinh tế của Việt Nam tương đối riêng lẻ.
Việt Nam vẫn còn phải phụ thuộc vào kinh tế thế giới để lấy lại quỹ đạo tăng trưởng đầy hứa hẹn trước đây.
Chỉ riêng tiêu dùng nội địa thì không thể đưa Việt Nam trở lại quỹ đạo tăng trưởng như nước Covid-19, do đó trong ngắn hạn, kinh tế Việt Nam vẫn liên quan chặt chẽ đến sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu và tiêu dùng của các nước khác. Hầu hết các cơ quan quốc tế dự đoán đến cuối năm nền kinh tế mới bắt đầu phục hồi và tăng tốc trong năm tới. Ngân hàng Phát triển Châu Á, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế đều đưa ra dự báo vào cuối quý 1 về dự đoán tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt 6,8 đến 7,0% vào năm 2021.
Sự hồi phục du lịch quốc tế và các ngành sản xuất cần nhiều lao động sẽ trở thành nhân tố quan trọng trong tốc độ tăng trưởng. Do tính chất không đoán trước được của Covid-19, rất khó để phân tích sự tăng trưởng trở lại của du lịch sẽ diễn ra như thế nào, nhưng có khả năng Việt Nam sẽ là nước đầu tiên trong khu vực ASEAN khởi động lại ngành công nghiệp ngày khi biên giới mở cửa trở lại. Tình trạng gần như không có virus corona của Việt Nam là một lợi thế lớn để thu hút khách du lịch quốc tế, miễn là các biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn sự tái phát của dịch bệnh.
Tuy vậy, ngay cả khi có sự phục hồi mạnh mẽ trong du lịch nội khối ASEAN thì số lượng khách du lịch quốc tế vẫn sẽ giảm sâu từ 50 đến 70% trong năm nay. Sự sụt giảm này rõ ràng sẽ có tác động đáng kể đến lĩnh vực vốn đã chứng kiến sự đóng cửa của hàng ngàn đơn vị kinh doanh du lịch lữ hành. Bên cạnh đó, ngoài việc quảng bá Việt Nam là đất nước an toàn và có nhiều điểm đến thú vị thì không còn nhiều điều Việt Nam có thể làm cho đến khi nhiều quốc gia khác mở cửa trở lại hay nới lỏng các quy định hạn chế du lịch của đất nước đó. Một số quốc gia đang thực hiện những hành động nhằm quảng bá du lịch nội địa để thay thế một phần doanh thu từ khách quốc tế mất đi do đại dịch và Việt Nam cũng là một trong số đó. Mặc dù vậy, khi xem xét ngân sách chi tiêu cho mỗi lần đi du lịch của khách nước ngoài (khoảng 900$) đã gần bằng 1/3 so với GDP bình quân đầu người của Việt Nam (khoảng 3000$/năm). Như vậy, rất khó để thu hẹp khoảng cách này nếu Việt Nam chỉ dựa vào sức chi tiêu của người dân khi du lịch nội địa. Có thể, Việt Nam sẽ phải chủ động ủng hộ việc mở cửa đi lại từ các thị trường châu Á gần đó như Trung Quốc, Hàn Quốc.
Đến năm 2021, một khi nhu cầu thị trường quay lại quỹ đạo sẽ tạo triển vọng tích cực cho các nhà sản xuất
Sản xuất là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam, góp phần giúp Việt Nam đạt được tỷ lệ thương mại trên GDP cao nhất trong khu vực Đông Nam Á (Hình 2). Tuy nhiên, COVID-19 bùng nổ đã tấn công mạnh vào ngành sản xuất, đầu tiên làm cho nguồn cung bị chặn khi mà Trung Quốc rơi vào tình trạng bị phong tỏa, và sau đó là nhu cầu giảm mạnh vì các thị trường xuất khẩu chính bị đình trệ. Do xuất khẩu đột ngột giảm mạnh, triển vọng của sự phục hồi trong ngắn hạn có vẻ không chắc chắn, các công ty bắt đầu cắt các khoản đầu tư theo kế hoạch trước đó, vì vậy làm giảm 21% nguồn vốn cho các cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong ba tháng đầu năm.
Nhưng vẫn có những điểm sáng có ảnh hưởng tích cực đến sự phục hồi. Tầm quan trọng của ngành sản xuất đối với nền kinh tế Việt Nam là rất rõ ràng, và vì vậy các bước quan trọng đã được thực hiện để duy trì hoạt động sản xuất mặc dù tình trạng phong tỏa vẫn diễn ra ở nhiều quốc gia khác. Ví dụ, các kỹ sư từ hai nhà sản xuất quốc tế lớn về các sản phẩm điện tử đã gia nhập thị trường Việt Nam vào đầu năm nay để đảm bảo các nhà máy của họ tiếp tục hoạt động hết công suất. Chính phủ cũng hợp tác với các doanh nghiệp địa phương để tăng cường sản xuất thiết bị bảo vệ cá nhân (PPE) cho các công nhân, giúp họ tiếp cận thị trường toàn cầu
Khi các nhà sản xuất trên toàn cầu bắt đầu suy nghĩ lại về các chiến lược chuỗi cung ứng để giải quyết các điểm yếu bị phơi bày bởi sự xuất hiện của dịch bệnh, Việt Nam vẫn ở thế mạnh. Đất nước này từ lâu đã là một điểm đến hấp dẫn: thị phần xuất khẩu ngành sản xuất cần nhiều lao động tăng 2,2% trong giai đoạn 2014-2017 (Hình 3) cao hơn nhiều so với một số nền kinh tế mới nổi khác. Tiểu ngành của sản xuất có thể tăng trưởng, đặc biệt nếu các công ty nỗ lực nhiều hơn để đa dạng chuỗi cung ứng sau đại dịch. Một cuộc khảo sát của McKinsey với những giám đốc, quản lý nguồn cung ứng thời trang được (khảo sát công bố vào tháng 5) ủng hộ quan điểm này, với 24% số người được hỏi cho biết họ hy vọng sẽ thấy sự gia tăng sản xuất tại Việt Nam hơn bất kỳ địa điểm nào khác ở châu Á.
Như vậy, năm 2020 chắc chắn sẽ tiếp tục là một năm thách thức, nhưng Việt Nam có thể hy vọng rằng sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây sẽ quay trở lại vào năm tới. Nếu Việt Nam tiếp tục duy trì được tình hình kiểm soát tốt dịch Covid-19, đồng thời có những thay đổi cấu trúc phù hợp thì nền kinh tế Covid-19 sẽ nhanh chóng phục hồi và còn có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mới.